Cốt toái bổ có tên khoa học là Drynaria fortunei (Kuntze ex Mett.) J.Sm., thuộc họ Dương xỉ (Polypodiaceae), mọc hoang ở khắp núi đá, trên cây hay dọc suối vùng rừng núi nước ta. Dùng chữa đụng dập chấn thương, đau xương khớp, bong gân, sai khớp, tai ù răng đau, thận hư. Trong bài viết này, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về tác dụng của Cốt toái bổ
Cốt toái bổTên thường gọi: Bổ cốt toái, co tạng tó, co in tó, cây tổ phượng, cây tổ rồng, tổ diều, tắc kè đá, Cây tổ rồng Tên Khoa học: Drynaria fortunei (Kunze) J. Sm. Họ: Polypodiaceae Công dụng: Bổ thận, mạnh gân xương, cầm máu, trị chứng răng đau |
Mô tả
Cây sống riêng trên các hốc đá, mọc trên những đám rêu, hoặc sống trên các thân cây lớn như cây đa, cây si. Cây sống lâu năm, có thân rễ dày mẫm, phủ nhiều vẩy màu vàng, bóng.
Có hai loại lá:
- Lá bất thụ, không cuống màu nâu, hình trứng 5-8cm, rộng 3-6cm, phía cuống hình tim, có thùy, gân nổi rõ.
- Lá hữu thụ, màu xanh nhẵn, đơn xẻ thùy lông chim, dài 25-40cm, cuống có dìa, cỏ thùy thuôn, tù ở đầu, dài 5- 6cm, có mạng, ổ tử nang nhiều, xếp thành một hàng ở mỗi bên gân chính, hình tròn, không có áo tử nang.
Ở Việt Nam có mấy loài cốt toái bổ đều được dùng làm thuốc như Drynaria fortunei J. Sm., Drynaria bonii Christ. Drynaria fortunei có lá xẻ răng cưa, bào tử xếp đều đặn, còn Drynaria bonii có lá mép lượn sóng, bào tử xếp không đều.
Phân bố
Mọc hoang ở khắp núi đá, trên cây hay dọc suối vùng rừng núi nước ta. Còn có mọc ở Lào, Trung Quốc (miền Trung và miển Nam).
Thu hái: Việc thu hái có thể tiên hành quanh năm, vào những lúc ít công việc đồng áng, thường vào các tháng 4 đến tháng 8-9.
Chế biến:
- Hái về, rửa sạch đất cát, trừ bỏ các lá là dùng được.
- Nếu dùng khô thì sau khi rửa sạch đất cát, hoặc phơi khô ngay, hoặc phơi sau khi đỗ cho chín để dễ bảo quản. Muốn hết lông, thường người ta đốt nhẹ cho cháy hết lông nhỏ phủ trên thủn rễ.
Bộ phận dùng
Rễ củ đào vào quanh năm.
Thành phần hoá học
Trong cốt toái bổ Drymria fortunei có hesperi- din (C A., 1970,73, 11382j) và 25-34,89% tinh bột (Trung Quốc kỉnh lể thực vật chí, 1961, 447).
Tác dụng dược lý
- Cốt toái bổ có tác dụng tăng cường sự hấp thu Calci của xương, nâng cao lượng Phospho và calci trong máu giúp cho chóng liền xương.
- Thuốc có tác dụng giảm đau và an thần. Có tác dụng rõ phòng ngừa lipid huyết cao, làm giảm lipid máu cao và phòng ngừa được chứng xơ mỡ mạch.
Vị thuốc Cốt toái bổ
Hình ảnh vị thuốc Cốt toái bổ
Tính vị: Vị đắng, tính ấm.
Quy kinh: Can và thận.
Công dụng: Bổ thận, mạnh gân xương hoạt huyết và cầm máu.
Bài thuốc có vị Cốt toái bổ
Trị chứng răng đau, răng long, răng chảy máu do thận hư: Bột Cốt toái bổ vừa đủ sao đen xát vào răng.
Gia vị Địa hoàng hoàn: Thục địa 16g, Sơn dược, Sơn thù, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả mỗi thứ 12g, Tế tân 2g, Cốt toái bổ 16g, sắc uống.
Trị chấn thương phần mềm, gãy xương kín: Tẩu mã tán: Cốt toái bổ, lá sen tươi, lá Trắc bá diệp tươi, quả Bồ kết tươi, lượng bằng nhau, tán nhỏ, mỗi thứ 12g, ngày 2 lần, hãm nước sôi uống hoặc đã đắp ngoài.
Tiếp cốt tán: Cốt toái bổ, Huyết kiệt, Bằng sa, Đương qui, Nhũ hương, Một dược, Tục đoạn, Đồng tự nhiên, Đại hoàng, Địa miết trùng, lượng bằng nhau, tán bột trộn Vaselin bôi vùng đau.
- Bài thuốc có tác dụng làm liền xương nhanh.
Trị chai chân: Cốt toái bổ 9g, giã nát ngâm vào 100ml cồn 95%, 3 ngày đem xát vùng chai có kết quả (Tạp chí Trung y 1964,8:37). Liều thường dùng: 10 – 20g Khô/ người/ngày
Bổ khí huyết, bổ gân xương, phòng và điều trị loãng xương, dùng cho người cao tuổi, người suy nhược cơ thể, gãy xương: Cốt toái bổ 12g; đảng sâm, hoài sơn, ba kích, mỗi vị 16g; hoàng kỳ, bạch truật, đương quy, cẩu tích, tục đoạn, mẫu lệ, mỗi vị 12g; thiên niên kiện 10g. Sắc uống ngày một thang hoặc nấu cao lỏng uống.
Chữa đau lưng, mỏi gối do thận hư, yếu: Cốt toái bổ 16g; cẩu tích, củ mài, mỗi vị 20g; tỳ giải, đỗ trọng, mỗi vị 16g; rễ gối hạc, rễ cỏ xước, dây đau xương, thỏ ty tử, mỗi vị 12g. Sắc uống ngày một thang.
Chữa phong thấp đau nhức thuộc huyết: Cốt toái bổ 40g, rễ gắm 120g, vỏ chân chim 100g, rễ rung rúc 80g; rễ bươm bướm (bạch hoa xà), rễ chiên chiến, mỗi vị 60g; xích đồng nam, bạch đồng nữ, tiền hồ, ô dược, cỏ xước, rễ bưởi bung, mỗi vị 40g. Nấu thành cao đặc; ngâm trong 2 lít rượu trắng 40 độ. Ngâm trong 3 ngày. Lọc lấy dịch trong, mỗi lần uống 30ml, ngày uống 2 lần.
Chữa bong gân, tụ máu: Cốt Toái Bổ tươi, bóc bỏ hết lông tơ và lá khô, rửa sạch, giã nhỏ, rấp nước, gói vào lá chuối đã nướng cho mềm, đắp lên các chỗ đau, bó lại. Thay thuốc bó nhiều lần trong ngày.
Điều trị chứng răng đau, răng long, răng chảy máu do thận hư: Thục địa 16g Sơn dược, Sơn thù du, Phục linh, Đơn bì, Trạch tả mỗi thứ 12g Tế tân 2g Cốt toái bổ 16g Sắc uống trong ngày. Tham khảo
Kiêng kỵ:
- Người âm hư, huyết hư.